Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh giải tốt bài toán có lời văn Lớp 3
Trong dạy học toán ở Tiểu học, giải toán có vị trí quan trọng, có thể coi dạy học giải Toán là "Hòn đá thử vàng" của dạy học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh.
Dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau đây:
+ Trước hết nó giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành các kiến thức đã học, rèn luyện kĩ năng tính toán, bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn (học tập, đời sống).
Qua các biểu hiện trên giáo viên phát hiện được rõ hơn những gì học sinh đã lĩnh hội và nắm chắc, những gì học sinh chưa nắm chắc, để có biện pháp giúp học sinh phát huy hoặc khắc phục.
+ Qua việc dạy học giải Toán, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt quan sát, phỏng đoán tìm tòi.
+ Qua giải toán, học sinh rèn luyện những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động như: ý trí khắc phục khó khăn, thói quen sét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng: Từng bước hình thành và rèn luyện thói quen và khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc, dập khuôn, xây dựng lòng ham thích tìm tòi, sáng tạo ở mức độ khác nhau, từ đơn giản nhất mà nâng cao từng bước.
Việc giải toán vừa đòi hỏi tính tích cực, độc lập sáng tạo trong suy nghĩ vừa đòi hỏi một khả năng thực hành. Để giúp học sinh có khả năng thực hành đó, lúc đầu học sinh cần được giáo viên dẫn dắt, hướng dẫn giải các bài toán theo mẫu, tái hiện cách giải điển hình, có thể giúp ích cho học sinh trong chừng mực nhất định. Song do tích chất đặc trưng của giải toán đã nói ở trên, riêng các biện pháp đó không thể giúp học sinh đạt được các mục tiêu cần thiết.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN I. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán có vị trí cực kỳ quan trọng vì những lí do sau: - Các kiến thức và kĩ năng của môn Toán, có nhiều ứng dụng trong đời sống sinh hoạt của mọi người dân lao động. - Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. - Môn Toán góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề góp phần phát triển trí thông minh, độc lập, sáng tạo, góp phần vào việc hình thành các phẩm chất của người lao động mới. Việc dạy giải toán ở Tiểu học là một trong những nội dung trong chương trình môn Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh tiếp thu và vận dụng những kiến thức về Toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng phong phú. Dạy học Toán giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy và có đủ tư cách, phẩm chất của con người mới. Trong thực tế, chất lượng của bộ môn Toán nói chung và đặc biệt môn Toán lớp 3 nói riêng đã có nhiều kết quả khả quan song chưa thực sự đáp ứng được với nhiệm vụ và yêu cầu môn học đề ra. Cụ thể là chất lượng môn Toán lớp 3 - trường Tiểu học chưa thực sự tương xứng với vị trí của môn Toán lớp 3 trong chương trình học. Đặc biệt là kỹ năng giải toán của học sinh lớp 3 chính là vấn đề cần quan tâm. Trước thực tế như vậy tôi luôn suy nghĩ: Làm thế nào để giúp học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng vào trong giải toán, góp phần nâng cao chất lượng học môn Toán của học sinh lớp 3, giúp các em có kỹ năng giải toán với tinh thần tự giác và hứng thú học tập. Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. Là một giáo viên trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy ở khối lớp 3, qua kinh nghiệm của bản thân và học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tôi đã rút ra được: “Một vài biện pháp giúp học sinh giải tốt bài toán có lời văn lớp 3” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 3 nói riêng. II. CƠ SỞ LÍ LUẬN. Trong dạy học toán ở Tiểu học, giải toán có vị trí quan trọng, có thể coi dạy học giải Toán là "Hòn đá thử vàng" của dạy học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu một cách tường minh và trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh. Dạy học giải toán ở Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau đây: + Trước hết nó giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành các kiến thức đã học, rèn luyện kĩ năng tính toán, bước tập dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn (học tập, đời sống). Qua các biểu hiện trên giáo viên phát hiện được rõ hơn những gì học sinh đã lĩnh hội và nắm chắc, những gì học sinh chưa nắm chắc, để có biện pháp giúp học sinh phát huy hoặc khắc phục. + Qua việc dạy học giải Toán, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, khêu gợi và tập dượt quan sát, phỏng đoán tìm tòi. + Qua giải toán, học sinh rèn luyện những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động như: ý trí khắc phục khó khăn, thói quen sét đoán có căn cứ, tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối cùng: Từng bước hình thành và rèn luyện thói quen và khả năng suy nghĩ độc lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc, dập khuôn, xây dựng lòng ham thích tìm tòi, sáng tạo ở mức độ khác nhau, từ đơn giản nhất mà nâng cao từng bước. Việc giải toán vừa đòi hỏi tính tích cực, độc lập sáng tạo trong suy nghĩ vừa đòi hỏi một khả năng thực hành. Để giúp học sinh có khả năng thực hành đó, lúc đầu học sinh cần được giáo viên dẫn dắt, hướng dẫn giải các bài toán theo mẫu, tái hiện cách giải điển hình, có thể giúp ích cho học sinh trong chừng mực nhất định. Song do tích chất đặc trưng của giải toán đã nói ở trên, riêng các biện pháp đó không thể giúp học sinh đạt được các mục tiêu cần thiết. III. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC. 1. Thực trạng chung của nhà trường: * Thuận lợi: - Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ huynh học sinh. - Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy học của giáo viên và học sinh. - Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ . - Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. * Khó khăn: - Nhiều phụ huynh học sinh không quan tâm đến việc học của con phó mặc cho giáo viên. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng học tập của các em. - Nhiều gia đình bố mẹ làm công nhân, gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già yếu nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu. - Do tâm lý chung của học sinh Tiểu học còn ham chơi nên nếu không có sự quan tâm của gia đình, nhà trường việc học hành của các em thì khó có hiệu quả cao. - Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều. 2. Thực trạng của lớp: Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: + Việc tóm tắt, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với một số học sinh trung bình và yếu của lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp + Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều – phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán. + Tuy môn Toán đạt gần 100% từ trung bình trở lên, song số điểm giỏi chưa nhiều, điểm đạt yêu cầu chủ yếu ở phần giải toán đơn, học sinh mắc lỗi nhiều ở phần giải toán trong luyện tập và kiểm tra, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng môn Toán. 3. Nguyên nhân: Qua thực tế khảo sát tôi nhận thấy: - Nhiều học sinh chưa nghiên cứu kĩ đề toán, nhiều học sinh vốn tiếng Việt còn hạn chế, nên việc xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán còn gặp nhiều khó khăn. - Một số học sinh chưa nắm chắc hệ thống các bài toán đơn đã được học, dẫn đến còn lúng túng trong việc phát hiện mối quan hệ logic giữa các bài toán này. - Học sinh còn thiếu tự tin trong việc tìm cách giải, còn bị hạn chế trong việc lựa chọn các phép giải. - Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường coi rằng bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số của bài. - Trong quá trình giảng dạy môn toán, giáo viên còn coi nhẹ một số bước trong quá trình giải toán như: Tìm hiểu đề toán, kiểm tra cách giải toán, nên nhiều học sinh mắc những lỗi không đáng có. Giáo viên chưa quan tâm đến việc rèn kĩ năng giải toán cho học sinh. Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải toán của học sinh. Khắc phục được những nguyên nhân trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo con người mới, năng động, tự chủ, sáng tạo. Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau: IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT DẠNG BÀI GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 3: 1. Trao đổi với phụ huynh – Thống nhất biện pháp giáo dục. 1.1. Mục tiêu. Chúng ta đều biết học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng đến trường còn phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cô. Phần nhiều các em chưa chủ động trong việc học tập. Chính vì vậy giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp các em học tốt hơn. 1.2. Cách tiến hành. Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của nhiều em chưa cao. Để giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng – cách hướng dẫn các em tự học ở nhà, đặc biệt nhất là đối với các ông bố vào buổi tối cố gắng bớt đi một chút thời gian chuyện trò với bạn bè, tắt (vặn nhỏ đài, ti vi) dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em học tập Rất mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp trên vì lâu nay các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho các em. Riêng trong phần bài tập của sách Toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề toán, luyện nói và trả lời nhiều Tuy nhiên, cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn một số gia đình vắng mặt do có việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học và do điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho giáo viên, cho nhà trường. Đối với những phụ huynh vắng mặt này, tôi tìm cách gặp gỡ, trao đổi tại nhà. Trong số đó có gia đình trao đổi họ lung túng không biết cách dạy con như thế nào nữa mà chỉ biết nhắc nhở con: “Học bài đi” rồi con học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng không hay. Đối với những em này, tôi phải hướng dẫn nhiều hơn ở lớp để về nhà các em tự học. 2. Giúp HS phân biệt rõ các dạng toán và chuẩn bị cho việc giải toán. 2.1. Mục tiêu. Hai loại toán ở lớp 3 nói riêng và ở Tiểu học nói chung là: Toán đơn và toán hợp. Mỗi loại toán này có vai trò quan trọng của nó. Việc giải các bài toán hợp thực chất là giải một hệ thống các bài toán đơn. Có kĩ năng giải các bài toán đơn, học sinh mới có cơ sở giải các bài toán hợp. Do đó giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ bản chất bài toán đơn để vận dụng giải các bài toán phức tạp sau này. 2.2. Cách tiến hành. Ở lớp 3, cùng với việc học phép nhân, chia, học sinh sẽ giải các bài toán đơn dùng phép nhân hoặc chia. Trong các đầu bài toán bằng lời văn, học sinh thường gặp những từ chìa khoá như: "Gấp lên, giảm đi bao nhiêu lần", "So sánh hơn, kém bao nhiêu lần". Các từ này thường được gợi ra phép nhân, chia tương ứng. Giáo viên cần chú ý học sinh tránh lẫn lộn "Bao nhiêu lần" với "Bao nhiêu đơn vị" và hiểu đúng khái niệm này. Củng cố thói quen đọc và hiểu đúng đề bài để ngăn ngừa tác dụng "Cảm ứng" của các từ "Chìa khoá". Giáo viên giúp học sinh nắm vững ý nghĩa của phép nhân và phép chia đồng thời giúp học sinh hiểu đúng các từ quan trọng trong đề toán. Các bài toán đơn "Tìm một trong các phần bằng nhau của một số" gắn với phép chia. Đối với học sinh lớp 3, tư duy còn thiên về cụ thể nên hai loại bài toán "chia thành phần bằng nhau" và "chia theo nhóm" tuy đồng nhất về mặt ý nghĩa toán học và đều giải bằng phép tính chia, nhưng lại là hai bài toán khác nhau về mặt ý nghĩa cụ thể. Tuy nhiên khi giải, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vượt qua sự khác biệt về mặt tâm lí để tập trung chú ý vào việc tìm ra và thực hiện đúng phép tính thích hợp, còn việc tìm ra từ thích hợp (phép chia), còn việc tìm ra từ thích hợp để "danh số" hoá số thương thì chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sống. Mặt khác, đối với lớp 3, do tư duy của học sinh đã có những tiến bộ, song vốn ngôn ngữ vẫn còn hạn chế, nên việc nâng cao dần dần các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng một cách vừa sức học sinh, các yêu cầu về trừu tượng hoá cần được chú ý, nhất là diễn tả các điều kiện, việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng và tia số, thay dần các hình vẽ tượng trưng, cần được coi như một công cụ phổ biến, tinh lược hoá những từ ngữ của đề toán, giúp các em tiếp cận tốt hơn với nội dung đề bài toán. Từ đó dẫn đến định hướng cách giải toán. Khi học sinh nắm vững cách giải các bài toán đơn, có thể gợi cho học sinh khá, giỏi dùng chữ thay dữ kiện (ở các bài có cấu trúc giống nhau), diễn đạt các cấu trúc toán học, từ đó củng cố ý thức về việc sử dụng các công cụ, thủ thuật toán học giống nhau khi giải chúng. Việc sắp xếp các bài toán đơn mà khi giải học sinh phải vận dụng các phép tính ngược sẽ giúp các em nâng cao và củng cố nhận thức về mối quan hệ giữa các phép tính ngược. Việc sử dụng hình vẽ hay sơ đồ để minh hoạ các điều kiện của bài toán là có ích với học sinh lớp 3 nói riêng, với học sinh Tiểu học nói chung. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ tác dụng của chúng (là chỗ dựa cho suy luận) trong việc giải toán. Đối với các bài toán dễ hay đã nắm vững cách giải cần chú ý đến phát huy trí tưởng tượng của học sinh, từng bước thay đổi chỗ dựa trực quan bằng hình ảnh trong óc suy luận, vừa giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết vừa thúc đẩy quá trình tư duy của học sinh. 3. Giúp học sinh nắm được quá trình giải toán. 3.1. Mục tiêu. Cái khó của việc giải bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán. Do đó giáo viên cần giúp học sinh nắm vững được quá trình giải toán. 3.2. Cách tiến hành. Quá trình này thường được tiến hành theo các bước như sau : - Tìm hiểu nội dung bài toán. - Tìm cách giải bài toán. - Thực hiện cách giải bài toán. - Kiểm tra, đánh giá kết quả. Thực tiễn việc học giải toán đã khẳng định, sự đúng đắn của các bước trong việc giải toán nói trên. Để làm cho học sinh có thói quen và kĩ năng áp dụng sơ đồ đó, cần làm cho học sinh từng bước nắm được và thực hiện tốt trong quá trình giải toán. 3.2.1. Dạy học sinh tìm hiểu nội dung bài toán. Trước hết muốn tìm hiểu đầu bài, cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán, các bài toán dưới dạng một bài văn viết, thường xen trộn 3 thứ ngôn ngữ: Ngôn ngữ tự nhiên, thuật ngữ toán học và ngôn ngữ kí hiệu (chữ số, các dấu phép tính, các dấu quan hệ và dấu ngoặc), nên việc hướng dẫn đọc và hiểu đầu bài toán rất quan trọng, nó giúp các em sử dụng được ngôn ngữ kí hiệu đặc biệt, làm các em hiểu được nghĩa của các thuật ngữ và kí hiệu sử dụng đúng. Để kiểm tra học sinh đọc và hiểu đầu bài toán, giáo viên nên yêu cầu học sinh nhắc lại nội dung đầu bài, không phải học thuộc lòng mà bằng cách diễn tả bằng ngôn ngữ của mình, tiến tới trước khi tìm cách giải cho học sinh, học sinh đã nhập tâm đầu bài toán để tập trung suy nghĩ về nó. Mỗi bài toán đều có 3 yếu tố cơ bản: Dữ kiện là những cái đã cho đã biết trong đầu bài, những ẩn số là những cái chưa biết và cần tìm (các ẩn số được diễn đạt dưới dạng câu hỏi của bài toán) và những điều kiện là quan hệ giữa các dữ kiện và ẩn số. Hiểu rõ đầu bài là chỉ ra và phân biệt rành mạch 3 yếu tố đó, từng bước thấy được chức năng của mỗi yếu tố trong việc giải bài toán. Ví dụ: Bài toán 4 ( SGK Toán 3 – trang 56) Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 lít, người ta đã lấy ra 185 lít dầu từ các thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu ? Với bài toán trên học sinh cần xác định được: Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít. Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu. Cái cần tìm (ẩn số): còn lại bao nhiêu lít dầu? Trên cơ sở phân biệt rõ cái gì đã cho (dữ kiện), cái gì là điều kiện, cái cần tìm (ẩn số) để tập trung suy nghĩ vào các yếu tố cơ bản này, cần giúp học sinh biết tóm tắt đầu bài bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn cô đọng nhất. Tuyệt đại bộ phận các bài toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng, đều có những điều kiện để minh hoạ bằng sơ đồ (đoạn thẳng, hình vẽ tượng trưng). Vì vậy học sinh phải từng bước biết minh hoạ phần tóm tắt bằng sơ đồ, nhất là sơ đồ đoạn thẳng hoặc minh hoạ trên trục số. Ví dụ: Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 166 ) Một hình chữ nhật có chiều dài 12 cm, chiều rộng bằng 1/3 chiều dài. Tính diện tích hình đó. Sau khi đọc kĩ đề bài, xác định được dữ kiện, điều kiện và ẩn số của bài toán, học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau: Từ sơ đồ trên học sinh đã thể hiện đầu bài toán một cách ngắn gọn và cô đọng nhất, đây là một yếu tố quan trọng giúp học sinh tìm tòi cách giải bài toán. Giáo viên tập cho học sinh có thói quen từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết có liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện không tường minh, để diễn đạt chúng một cách rõ ràng hơn. Quá trình tìm hiểu đầu bài và tìm tòi lời giải kết hợp với nhau một cách chặt chẽ. Nhiều trường hợp, khi tìm cách giải, học sinh gặp khó khăn phải trở lại tìm hiểu đầu bài, tìm hiểu dữ kiện và điều kiện. 3.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán. Từ việc giải một bài toán đơn sang bài toán hợp, học sinh phải giải quyết một nhiệm vụ khó khăn là phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn. Trên tinh thần dạy học phát triển, việc làm cho các em nắm được các phương pháp chung và các thủ thuật cơ bản thường dùng để giải các bài toán đa dạng nhưng thường gặp và có những mức độ phức tạp khác nhau là rất cần thiết. Để giải quyết được vấn đề này, giáo viên cần giúp học sinh biết dẫn về một bài toán đã biết cách giải. Khi giải một bài toán mới, học sinh biết dẫn nó về một bài toán mà các em đã biết cách giải, hoặc có thể liên tưởng tới những hành động thực tiễn nào đó mà các em đã thực hiện, để giải quyết một nhiệm vụ nào đó thì các em có thể có một gợi ý về cách giải. Ví dụ 1: Bài toán 2 phần a ( SGK toán 3 trang 38 ) Một cửa hàng buổi sáng bán được 60 lít dầu, số lít dầu bán được trong buổi chiều giảm đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng đó bán được bao nhiêu lít dầu ? Khi giải bài toán này qua phân tích hai điều kiện của bài toán và tập trung chú ý vào hai điều kiện, các em dẫn tới những bài toán đã học về: "Tìm một phần mấy của một số" để tìm số lít dầu bán được vào buổi chiều (60 : 3 = 20 l.) Ví dụ 2: Bài toán 2 (SGK toán 3 trang 88) Người ta uốn một đoạn dây thép vừa đủ thành một hình vuông cạnh 10cm. Tính độ dài đoạn dây được. Đối với bài toán trên, các em cần phân tích các dữ kiện đã biết, kết hợp quan sát giáo viên thao tác trực quan trên mô hình để nhận thấy độ dài đoạn dây chính là chu vi hình vuông được tạo thành. Từ đó các em biết dẫn về bài toán đã biết “Chu vi hình vuông” để tìm được độ dài đoạn dây thép (10 x 4 = 40 cm) Bên cạnh đó việc quan sát và dự đoán trong quá trình tìm ra lời giải cũng rất quan trọng. Quan sát các dữ kiện có vai trò quyết định trong việc tìm ra lời giải của bài toán. Ngoài ra, trong sách giáo khoa toán 3, bên cạnh phần lớn các bài toán dành cho học sinh trung bình, còn một số bài toán mà các dữ kiện thường nhiều hơn, phức tạp hơn, nhiều khi không được đưa ra trực tiếp hoặc tường minh. Việc tìm phương pháp giải nhiều khi phụ thuộc vào việc tìm ra "điểm nút" để tập trung tháo gỡ ra, việc lựa chọn con đường đúng đắn để tiếp cận nó. Muốn vậy phải biến đổi bài toán, với một số biến đổi thường được dùng ở Tiểu học. Ví dụ : Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 88) Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép bời 3 viên gạch như thế. Đây là bài tập vận dụng của bài “Chu vi hình vuông” nên không ít học sinh máy móc đã vận dụng quy tắc tính chu vi hình vuông vừa học để tìm chu vi một viên gạch, sau đó lấy chu vi một viên gạch gấp lên 3 lần để ra chu vi hình chữ nhật. Và các em không hề nhận ra phương pháp giải của mình là sai lầm. Để giải quyết vấn đề này, theo tôi “nút thắt” cần tháo gỡ chính là giúp học sinh so sánh tìm ra điểm khác nhau giữa chu vi hình chữ nhật được ghép từ 3 viên gạch hình vuông và tổng chu vi của 3 viên gạch hình vuông. Giáo viên cho học sinh chỉ trên hình vẽ, và đồ lại bằng phấn màu để các em quan sát, so sánh để nhận thấy tổng chu vi 3 viên gạch hơn chu vi hình chữ nhật cần tìm là 4 lần cạnh viên gạch hình vuông. Từ đó các em phát hiện ra điểm sai lầm trong cách giải nêu trên và tìm ra con đường đúng để tìm tòi lời giải cho bài toán : Trước tiên cần xác định chiều rộng (cạnh viên gạch hình vuông : 10cm) và tìm chiều dài ( 10 x 3 = 30 cm) của hình chữ nhật, sau đó đưa về bài toán tìm chu vi hình chữ nhật để tìm ra đáp số. 3.2.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện giải bài toán. Khi thực hiện kế hoạch giải bài toán, học sinh còn dựa vào các thủ thuật (hay phép) giải thích đối với từng khâu trong kế hoạch để đi đến kết quả mong muốn. Đối với một số bài toán có cấu trúc riêng, thường sử dụng các thủ thuật (phép) giải riêng. Với đặc điểm trình độ tư duy của học sinh lớp 3, việc sử dụng phương pháp chung dưới hình thức các phép thích hợp với lứa tuổi sẽ mang lại kết quả mong muốn. Một số phương pháp phù hợp hay được sử dụng là: + Tìm lời giải bằng sơ đồ: Ở lớp 3, các bài toán đều mang tính chất đơn giản nên các dữ kiện và điều kiện của nhiều bài toán có thể diễn đạt trực quan bằng sơ đồ đoạn thẳng, loại sơ đồ này được dùng phổ biến làm chỗ dựa cho việc tìm kế hoạch giải bài toán hoặc một phần bài toán. Trong nhiều bài toán liên quan đến việc so sánh, xếp thứ tự việc dùng tóm tắt thay cho sơ đồ đoạn thẳng, để biểu diễn quan hệ giữa các số, tỏ ra thích hợp và mang lại kết quả tốt hơn. Ví dụ: Bài 3 (SGK toán 3 trang 58) Thửa ruộng thứ nhất thu hoạch được 127 kg cà chua, thửa ruộng thứ hai thu hoạch được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lô-gam cà chua ? Để giải bài toán này giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ. Sau khi đọc kĩ đề bài ta thấy: Nếu coi số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất là 1 phần thì số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai sẽ là 3 phần bằng nhau. Ta có sơ đồ: Từ sơ đồ trên ta dễ nhận thấy mối quan hệ giữa số ki-lô-gam cà chua của hai thửa ruộng, từ đó có thể nêu ra cách giải toán: Bài giải: Thửa ruộng thứ hai thu hoạch được số ki-lô-gam cà chua là: 127 x 3 = 381 (kg). Cả hai thửa ruộng thu hoạch được số ki-lô-gam cà chua là: 127 + 381 = 508 (kg). Đáp số: 508 kg cà chua. + Lựa chọn và kết hợp các phép giải: Khi điều khiển quá trình dạy học sinh giải toán, giáo viên cần phải động viên học sinh cố gắng, tự tin tìm ra cách giải toán, tự tìm ra các thủ thuật thích hợp, biết mò mẫm, quan sát, phỏng đoán, huy động các kinh nghiệm đã có để tìm ra lời giải. Việc hướng dẫn các em giải toán, trước hết là học sinh khá giỏi, biết từng bước dùng chữ thay số cần tìm, diễn đạt quan hệ bài toán bằng phương trình và giải nó bằng thủ thuật thích hợp, vừa sức các em là điều cần chú ý. Thực hiện giải bài toán bao gồm việc thực hiện các phép tính trong kế hoạch giải bài toán và trình bày bài giải. Theo chương trình toán hiện hành, thì mô hình trình bày bài giải bài toán có lời văn ở lớp 3, mỗi phép tính, mỗi biểu thức đều phải kèm theo câu lời giải, cuối bài có ghi đáp số. Ví dụ 1: Bài 3 (SGK Toán 3 trang 32) Mỗi lọ hoa có 7 bông hoa. Hỏi 5 lọ hoa như thế có bao nhiêu bông hoa ? Bài giải Năm lọ hoa như thế có số bông hoa là: 7 x 5 = 35 (bông hoa) Đáp số: 35 bông hoa. Ví dụ 2 : Bài 3 (SGK toán trang 106) Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng 1/3 số cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ? Bài giải Số cây đội đó trồng thêm là: 948 : 3 = 316 (cây) Đội đó trồng được tất cả số cây là: 948 + 316 = 1 264 (cây) Đáp số: 1 264 cây 3.2.4. Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá kết quả. Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải xong, khi tính đáp số hoặc tìm được câu trả lời cho câu hỏi. Thế nhưng không phải học sinh nào cũng có niềm tin chắc chắn vào kết quả mình tìm được, chỉ cần giáo viên hỏi vặn lại một và câu là các em lại lúng túng, nghi ngờ cách giải của mình. Do đó kiểm tra cách giải và kết quả bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán. Việc làm đó giúp các em biết được kết quả bài làm cũng như cách giải bài toán của mình đã đúng chưa, có phù hợp không. Việc kiểm tra, đánh giá cách giải bài toán phải trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu học. Ở lớp 3, cần tập cho học sinh biết nhìn lại toàn bộ bài giải, nhìn lại phương pháp và các thủ thuật đã sử dụng (yêu cầu cao hơn ở lớp 1,2) để vừa kiểm tra bài giải vừa nắm vững thêm cách giải. Chú ý từng bước cho học sinh thói quen soát lại và suy nghĩ về tính hợp lí của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dòng, chưa hợp lí để tìm cách cải tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự hỏi: "Có thể giải bằng cách khác không ?" Tìm được cách giải khác một mặt tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. * Các hình thức thực hiện kiểm tra cách giải bài toán: - Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được trong quá trình giải với các số đã cho. - Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải bài toán đó. - Giải bài toán bằng cách khác. - Xét tính hợp lí của đáp số. Ví dụ: Bài 1 (SGK toán 3 trang 176). Một sợi dây dài 9 135 cm được cắt thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài bằng 1/7 chiều dài sợi dây. Tính chiều dài mỗi đoạn dây ? Bài giải Chiều dài của đoạn dây thứ nhất là: 9 135 : 7 = 1 305 (cm). Chiều dài của đoạn dây thứ hai là: 9 135 - 1 305 = 7 830 (cm). Đáp số: Đoạn thứ nhất: 1 305 cm. Đoạn thứ hai: 7 830 cm. - Để kiểm tra cách giải bài toán trên, giáo viên hướng dẫn học sinh thiết lập tương ứng giữa độ dài đoạn dây thứ nhất, độ dài đoạn dây thứ hai với chiều dài của cả sợi dây. Ta thấy: 1 305 + 7 830 = 9 135 (cm). Dựa vào phép tính tương ứng trên, ta khẳng định bài toán có cách giải và kết quả đúng. - Để kiểm tra cách giải bài toán trên, học sinh cũng có thể giải bài toán bằng cách khác. Chẳng hạn như : Theo đầu bài ra ta có sơ đồ sau: Ta thấy đoạn thứ nhất dài bằng 1/7 sợi dây tức là cả sợi dây chia ra thành 7 phần bằng nhau thì đoạn1 là một phần, suy ra đoạn 2 là sáu phần bằng nhau vậy có thể tìm độ dài hai đoạn dây theo cách: Bài giải Độ dài đoạn dây 1 là: 9 135 : 7 = 1305 (cm) Độ dài đoạn 2 là: 1 305 x 6 = 7 830 (cm) Đáp số: Đoạn 1: 1 305 cm, Đoạn 2: 7 830 cm. Xét tính hợp lý của đáp số, ta thấy chiều dài của cả sợi dây, trừ đi độ dài của đoạn 2, thì còn lại chiều dài của đoạn 1: 9 135 - 7 830 = 1 305 (cm). Từ đó ta khẳng định đáp số trên là kết quả đúng. * Hình thức kiểm tra, đánh giá. Như trên đã phân tích, ta thấy việc kiểm tra đánh giá lại bài làm là vô cùng cần thiết. Cho nên hình thức tự kiểm tra được sử dụng thường xuyên, và cần hình thành cho mỗi học sinh thói quen tự kiểm tra, đánh giá bài làm của mình. Bên cạnh đó để việc kiểm tra, đánh giá đạt hiệu quả cao, không nhàm chán, các học sinh có cơ hội giao lưu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ thì giáo viên cũng có thể cho học sinh kiểm tra, đánh giá lẫn nhau. Sau khi kiểm tra, các học sinh có thể đưa ra lời nhận xét, góp ý phù hợp giúp bạn mình tiến bộ hoặc thông qua đó có thể được nghe ý kiến hay của bạn để mình học tập. 4. Rèn kĩ năng giải toán cho học sinh: 4.1. Mục tiêu. Việc rèn kĩ năng giải toán cho học sinh giúp hình thành năng lực khái quát hoá và kĩ năng giải toán, rèn luyện năng lực sáng tạo trong giờ học tập cho học sinh. 4.2. Cách tiến hành. Có thể tiến hành rèn kĩ năng giải toán cho học sinh bằng các cách sau : a. Giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm, hoặc điều kiện của bài toán b. Giải bài toán có nhiều cách giải khác nhau. c. Tiếp xúc với các bài toán thiếu và thừa dữ kiện hoặc điều kiện của bài toán d. Lập và biến đổi bài toán, hoạt động này có thể tiến hành dưới những hình thức sau: - Đặt câu hỏi cho bài toán mới chỉ biết dữ kiện hoặc điều kiện. - Đặt điều kiện cho bài toán. - Chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán còn thiếu số liệu. - Lập bài toán tương tự với bài toán đã giải. - Lập bài toán ngược với bài toán đã giải. - Lập bài toán theo bảng tóm tắt hoặc sơ đồ minh hoạ. - Lập bài toán theo cách giải cho sẵn. Ví dụ giáo viên đưa bài toán thiếu dữ kiện : Túi gạo thứ nhất bằng 1/3 túi gạo thứ hai. Hỏi túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất bao nhiêu ki-lô-gam gạo ? Ở bài toán này học sinh cần tìm hiểu đề bài, phân tích để thấy được bài toán này thiếu dữ kiện. Túi gạo thứ nhất, túi gạo thứ hai đựng bao nhiêu ki-lô-gam gạo chưa cụ thể, mới chỉ có mối quan hệ giữa số gạo của hai túi, do đó cần thêm dữ kiện vào và giải bài toán. Chẳng hạn, ta có thể thêm dữ kiện để được bài toán như sau : Bài toán: Túi gạo thứ nhất đựng 8 kg gạo và bằng 1/3 số gạo của túi thứ hai. Hỏi túi thứ hai đựng nhiều hơn túi thứ nhất bao nhiêu kilôgam gạo ? Bài giải Túi gạo thứ hai đựng số gạo là: 8 x 3 = 24 (kg) Túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất số ki-lô-gam gạo là: 24 - 8 = 16 (kg) Đáp số: 16 kg gạo Ví dụ: Bài 3(SGK toán 3 trang 129) Lập bài toán theo tóm tắt sau rồi giải bài toán đó: Tóm tắt : 4 xe : 8 520 viên gạch. 3 xe : ...... viên gạch? Nhìn vào phần tóm tắt trên học sinh phát hiện ngay được bài thuộc dạng toán “Toán hợp giải bằng hai phép nhân chia, có liên quan đến việc rút về đơn vị” và từ đó dễ dàng đặt được đề toán như sau : Bài toán : Bốn xe ô tô chở được 8 520 viên gạch. Hỏi 3 xe ô tô như thế chở được bao nhiêu viên gạch? Bài giải Mỗi xe ô tô chở được số viên gạch là: 8 520 : 4 = 2 130 (viên gạch) Ba xe ô tô chở được số viên gạch là: 2 130 x 3 = 6 390 (viên gạch) Đáp số: 6 390 viên gạch 5. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập 5.1. Mục tiêu. Đặc điểm chung của học sinh Tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê các em trong học tập, rèn luyện. Do đ
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_giup_hoc_sinh_giai_t.doc