Bài giảng Tiếng Việt 3 (Kết nối tri thức) - Bài 22: Sự tích ông Đùng, bà Đùng (Tiết 4)

pptx 6 trang Hoa Bình 19/11/2025 140
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Tiếng Việt 3 (Kết nối tri thức) - Bài 22: Sự tích ông Đùng, bà Đùng (Tiết 4)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TRƯỜNG TIỂU HỌC 
 CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ
 VỀ DỰ GIỜ THĂM LỚP
 Môn Tiếng Việt lớp 3
BÀI 22: SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÙNG (T4)
 Giáo viên:
 Lớp: 3 Thứ ngày ..tháng ..năm .
 TIẾNG VIỆT
 Bài 22: SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÙNG (T4)
1. Luyện tập.
Bài 1. Trao đổi cùng bạn về một nhân vật em thích câu 
chuyện đẫ đọc, đã nghe
Bài 2. Viết 2-3 câu nêu lí do em yêu thích nhân vật. Thứ ngày ..tháng ..năm .
 TIẾNG VIỆT
 Bài 22: SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÙNG (T4)
 1. Luyện tập. Đọc truyện THẦN SẮT
 Xưa có anh nông dân một mình sống ở cái lều ven rừng. Anh không có một tấc 
sắt nên làm ăn rất vất vả. Anh chặt củi bằng đá, đẽo cây bằng gỗ, đào hố tra bắp 
bằng đầu que. Khổ sở hết chỗ nói, thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo.
Anh khổ quá nên người xấu xí đến nỗi con gái thấy anh không thèm nhìn mặt, trẻ 
con thấy anh vội chạy đi xa, người già thấy anh chỉ biết ôm mặt khóc.
Còn anh, chỉ biết than thở một mình. Chim muông, thú vật thấy cảnh khổ của anh 
sợ lây sang mình rồi cũng bỏ đi chỗ khác. Khu rừng đã hoang vắng lại càng hoang 
vắng thêm. Đến con suối róc rách bên lưng đèo cũng không nói với anh những 
tiếng an ủi mà cứ lặng lẽ trôi xuôi. Thứ ngày ..tháng ..năm .
 TIẾNG VIỆT
 Bài 22: SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÙNG (T4)
 Một hôm anh nằm mơ thấy Bụt hiện lên bảo:
 - Ngày mai con ra cửa thấy có ba người cưỡi ba con ngựa vào xin ngủ trọ thì 
con cứ cho, đừng ngại gì nhà chật.
 Quả nhiên, chiều hôm sau, anh thấy một người ruổi ngựa đi qua. Người đó 
mặc áo trắng tinh, cưỡi con ngựa cũng trắng. ánh bạc tỏa ra lạnh toát. Người đó 
dừng ngựa trước lều hoạnh họe: - "Nhà ngươi có chỗ cho tao trọ, mau thu xếp 
cho tao!". Anh ngước nhìn nói: - "Lều rách của tôi không có chỗ xứng đáng nên 
xin ngài đi nơi khác".
 Lúc sau, anh lại thấy một người toàn thân giát vàng chói lọi, cưỡi một con 
ngựa vàng ì ạch ra dáng bệ vệ đi tới. Hơi nắng làm mây đen kéo đến đằng trước, 
khí núi lạnh tỏa ra sau nhà, anh sợ quá cũng từ chối không cho vào.
 Chiều tối đến lúc trăng gần lên, anh thấy một người toàn thân đen, xấu xí 
nhưng khỏe mạnh, cưỡi con ngựa cũng đen và to lớn lại đến xin trọ. Vừng trời bỗng đỏ ửng, gió mát thổi lùa hương thơm của núi rừng tới, chim 
đậu nóc nhà ríu rít. Suối chảy mạnh chồm lên tảng đá như nói: "Mách anh, mách 
anh cho người nghỉ trọ". 
 Anh nông dân tự lòng mình thấy vui bèn ưng ý.
 Nhưng lạ quá, sớm hôm sau dậy, anh không thấy người đó và con ngựa đâu 
cả, mà chỉ thấy ở chỗ ngủ có một cục sắt đen sì.
 Anh mới ngẫm nghĩ đoán rằng hai người đến trước có lẽ là thần bạc, thần 
vàng. Anh nghĩ tiêng tiếc, nhưng con chim sau nhà hót: "Chả tiếc, chả tiếc" và 
con thú đầu ngõ kêu: "Cục sắt quý, cục sắt quý quý".
 Anh liền lấy cục sắt mang ra làm cày, làm cuốc, khai phá ruộng nương. Mùa 
đến, những thảm lúa vàng óng ánh hiện ra. Trên mâm cơm anh ăn là những hạt 
gạo ngọc.
 Từ đó, nhờ có sắt và làm ăn chăm chỉ, đời sống của anh khá dần lên.
 Con gái đi qua nhìn anh vui vẻ, trẻ con thấy anh tíu tít bám xung quanh, người 
già thấy anh đều mững rỡ. Chim chóc thấy anh ca hót, líu lo, muông thú thấy anh 
nô đùa trong nắng, và con suối trong rừng kia cũng ngày đêm reo mừng như 
cuộn thác. 

Tài liệu đính kèm:

  • pptxbai_giang_tieng_viet_3_ket_noi_tri_thuc_bai_22_su_tich_ong_d.pptx